Việt Nam đất nước với sự đa dạng sinh học từ các loài động vật cho đến thực vật đã được công nhận bởi nhiều tổ chức. Trong đó có loài rùa thuộc loài động vật quý hiếm và trên nhiều quốc gia đây còn được coi là linh vật. Tại nước ta cũng có những bộ phận người dân không ưa chúng. Hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu thông tin về loài rùa sa nhân.
Rùa sa nhân là gì
Với tên thường gọi trong tự nhiên vẫn là rùa sa nhân. Còn trong nghiên cứu khoa học chúng được gọi là cuaora mouhoti được đưa ra bởi một nhà sinh vật học có tên là Gray vào năm 1862. Được xếp vào họ nhà rùa đầm emydidae và bộ rùa testudinata
Đặc điểm nhận dạng
Trong số tất cả các loài rùa đã được ghi nhận ở trên thế giới và tại Việt Nam thì rùa sa nhân có kích cỡ thuộc loại trung bình. Với các đặc điểm nhận dạng của từng bộ phận như sau:
Phần mai rùa
- Có những gam màu khác nhau, nhưng chủ yếu là màu nâu đất và màu đen. Trên đỉnh mai của nó còn có 3 điểm gờ nổi lên, 2 trong 3 gờ đó mọc lên đối xứng qua sống lưng tạo cảm giác như có 2 mặt phẳng nhô lên.
- Màu sắc giữa các vùng trên mai rùa sa nhân cũng có sự khác biệt khi ở vị trí 2 gờ đã nói thường sáng bóng hơn so với phần còn lại. Các gờ này sẽ bắt đầu nổi lên từ tấm thứ nhất kéo dài cho đến tấm sườn thứ 4.
- Còn những tấm còn lại sẽ chủ yếu có hình răng cưa. Chính vì vậy trong dân gian loài rùa này còn được gọi là rùa răng cưa.
Yếm: với cấu tạo có bản lể để giúp chúng có thể thu phần yếm trên vào phía trong mai. Ngoài ra thì đặc điểm này của các cá thể rùa sa nhân cũng không giống nhau. Đối với con đực sẽ có phần yếm lõm xuống phía dưới nhiều, con cái thì sẽ phẳng hơn. Hơn nữa màu sắc của yếm cũng sẽ nhạt hơn so với phần mai và có viền đen bao quanh.
Mắt: một đặc điểm rất nổi bật của rùa sa nhân so với những giống khác. Đó là cặp mắt chúng sẽ có màu đỏ, chỉ có những con nào bị đột biến gen thì mắt mới có màu vàng.
Đầu: bộ phận này có kích thước bình thường và tỉ lệ thuận với kích thước cơ thể. Thông thường da đầu sẽ có màu nâu đậm, khi sống lâu sẽ chuyển sang màu xám đen tạo thành hình hoa văn rất bắt mắt.
Chân: đây là một trong những giống rùa có chiều dài của tứ chi là khá cao. Chính điều này đã khiến chúng có khả năng di chuyển khá nhanh nhẹn. Hơn nữa lại có móng và vảy rất chắc chắn cho nên những điều kiện tự nhiên gồ ghề không làm khó chúng được.
Đuôi: bộ phận có thế nhận biết cuối cùng của loài sinh vật này. Cũng giống như phần đầu thì đuôi của rùa sa nhân không có sự khác biệt lắm. Thậm chí là giữa những cá thể đực và cái trong cùng 1 loài.
Sự tăng trưởng trong môi trường tự nhiên
Kích thước
Bằng các cuộc thăm dò trên khoảng 45 cá thể rùa sa nhân khi chúng đạt độ tuổi trưởng thành thì kích thước rơi vào khoảng từ 14 đến 18 cm. Trong số đó thì tỉ lệ cá thể có chiều dài từ 16 đến 17cm là chiếm số đông.
Trong đó có những cá thể đặc biệt như là ngắn nhất là 11cm và dài nhất 21cm. Ngoài ra thì kích thước các con đực sẽ dài hơn con cái.
Trọng lượng cơ thể
Cũng với số lượng cá thể rùa sa nhân ở trên các số liệu báo cáo cũng ghi nhận. Trọng lượng chúng dao động trong khoảng 400 gam đến 800 gam. Và tần suất con rùa đạt 600 đến 700 gam chiếm số lượng nhiều nhất, nặng nhất là đạt ngưỡng 1,2kg.
Khi đã đạt đến độ tuổi trưởng thành thì chúng sẽ có sự thay đổi cân nặng không đáng kể, mà chủ yếu phụ thuộc vào thời tiết. Chẳng hạn vào khoảng thời gian mùa thu thì trọng lượng chúng sẽ đạt mức cao nhất. Để rồi khi mùa đông đến chúng sẽ bước vào giai đoạn ngủ đông và theo thời gian cân nặng cũng sẽ giảm xuống.
Bằng việc xác định 2 thông số trên mà các nhà nghiên cứu cũng đã nhận ra được sự tương quan giữa chúng. Khi nắm rõ chúng họ sẽ dễ dàng phán đoán xem tình trạng sức khỏe của cá thể rùa sa nhân đó. Do đặc điểm của loài động vật này nếu có bệnh sẽ ủ rất lâu, đến khi phát tác ra thì sẽ chết sau đó một khoảng thời gian rất ngắn.
Phân bố
Theo báo cáo trong cuộc khảo sát mới nhất được thực hiện vào năm 2016. Theo đó mà loài rùa sa nhân chủ yếu sinh sống tại các nước Châu Á như Trung Quốc, Lào, phía đông Ấn Độ. Tại nước ta thì chúng phân bố khá đa dạng. Có thể bắt gặp ở những tỉnh thành như Lào cai, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Hà Nội(vùng núi Ba Vì), Hòa Bình, Ninh Bình, Hà Bắc, Thanh Hóa, Nghệ An.
Khả năng tồn tại
Môi trường sống thích hợp của chúng là các khu rừng, dưới những lớp lá cây mục trên đất. Thức ăn trong tự nhiên chủ yếu là các loại cây cỏ, hoa quả rừng rụng hoặc là các loài động vật nhỏ hơn nó.
Tuy nhiên vì nạn săn bắt động vật quý hiếm mà số lượng cá thể đa giảm hẳn. Cho nên đã có những trại nhân giống loài rùa sa nhân được cấp phép hoạt động. Khác với trong tự trong điều kiện nhân tạo chúng sẽ không có được sự tự do như trước.
Môi trường sống phải là trong các chuồng kín bọc lưới B40 và có thành cao để hạn chế khả năng leo trèo của chúng. Trong đó phải đảm bảo các điều kiện như là phải có hang đá cùng hệ thống cung cấp nước tạo độ ẩm. Một điều không thể thiếu đó là tỉ lệ bao phủ của cây phải đạt trên 80%.
Thức ăn cung cấp hằng ngày cho chúng bao gồm: rau muống, cà chua, khoai lang, chuối, dưa chuột, dâu da xoan, xoài, dâu da đất, cà rốt, mộc nhĩ, ốc núi, ốc sên, giun đất. Tuy nhiên đó không phải là thực đơn hằng ngày của chúng mà đó là những thức ăn ưa thích của chúng.
Hiện nay rùa sa nhân là một trong những loài sinh vật quý hiếm cũng như có giá trị sinh học, khoa học, thẩm mỹ khá cao. Chính vì điều đó để bảo vệ chúng đã có nhiều tổ chức được thành lập nhằm nhân giống cũng như bảo tồn gen.